Ông Ích Khiêm (翁益謙, 1831-1884 [1]) tự Mục Chi, là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Ông sinh ngày 21 tháng 12 năm Mậu Tý (tức 25 tháng 1 năm 1829) tại làng Phong Lệ, tổng Thanh Quýt, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là khu vực Phong Lệ Bắc, phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng).
Tổ tiên Ông Ích Khiêm [2] vốn là người dân tộc miền núi xuống định cư làm ruộng ở miền xuôi. Cha ông là Ông Văn Điều và mẹ là Võ Thị Cốt. Sinh ra trong một gia đình nông dân đông con, gồm 8 trai 5 gái, ông Khiêm là người con thứ tư sau ba chị gái, nhưng lại là người con trai đầu.
Thuở nhỏ, ông vừa chăn trâu cắt cỏ, vừa theo học với người chú là Ông Văn Trị. Ông thông minh, chăm học nhưng cũng rất nghịch ngợm. Khi lớn lên, ngoài tài gồm văn võ, ông còn nổi tiếng là người chính trực, là một vị tướng khẳng khái, mưu lược và biết thương yêu quân sĩ.
Thăng trầm nghiệp quan
Năm Thiệu Trị thứ 7 (Đinh Mùi, 1847), ông đỗ cử nhân tại trường Hương Bình Định, nhờ sự sáng suốt của quan chủ khảo Vũ Duy Thanh (1807-1859). Ông Thanh đã quyết cho đỗ với lời phê rằng: “Bài này tuy lời văn không được chải chuốt, chữ viết xấu nhưng ý tứ dồi dào. Qua bài này, ta thấy thí sinh phải là người có lòng yêu dân thương nước cao, có chí ngang tàng, có lòng cương trực thì mới viết được như thế” [3]
Sử nhà Nguyễn là "Đại Nam chính biên liệt truyện " chép:
"Ông Ích Khiêm đỗ hương tiến (tức cử nhân) mới 15 tuổi. Vua Thiệu Trị cho mời vào điện cho thử lại bằng bài thơ lấy đầu đề là “Thiếu niên đăng cao khoa” (Tuổi trẻ đỗ cao). Bài làm của ông được vua ban khen (tr. 812).
Đỗ cử nhân, ông được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Năm Tự Đức thứ 15 (1862), vì can việc thu chi tiền tu tạo huyện lỵ nên bị cách chức. Gặp lúc quân Tạ Văn Phụng ở Hải An kéo đi đánh phá, ông xin mộ binh đi theo quân thứ lập công chuộc tội, được khởi phục lại hàm Tri huyện, sung Vệ hiệp quản Chiến sĩ. Có công, ông được thăng làm Tri phủ sung Đốc binh.
Tháng 5 (âm lịch) năm 1865, quân Tạ Văn Phụng kéo đến đánh phá các đồn ở Quỳnh Lâu, An Trì thuộc tỉnh Quảng Yên; Ông Ích Khiêm mang quân phá được, lại cùng với Phó Vệ úy Phan Đình Thỏa mang quân thu phục được thành phủ Hải Ninh, nên được thăng Thị độc sung Tán tương. Đến khi quan quân khải hoàn, ông được cất lên chức Hồng lô tự khanh Biện lý bộ Lễ.
Tháng 6 (âm lịch) năm 1867, xét công, vua Tự Ðức thăng ông làm Thị lang bộ Binh. Sang tháng sau, gặp lúc tên phạm trốn bên đất nhà Thanh (Trung Quốc) là Vi Tái Thọ tụ đảng ở Bắc Ninh, nhà vua bèn sung ông làm Bắc Ninh Tiễu phủ sứ để đi đánh dẹp (nên ông còn được gọi là Tiễu Phong Lệ hay quan Tiễu).
Việc xong, nhưng ít lâu sau (1868), Ngô Côn (là dư đảng của Hồng Tú Toàn) kéo quân đến đánh chiếm thành tỉnh Cao Bằng. Triều đình sai Tổng đốc Ninh Thái là Phạm Chi Hương viết thư cầu cứu nhà Thanh. Vua nhà Thanh bèn sai Phó tuớng Tạ Kế Quý, đem quân sang giúp. Nhân đó Ông Ích Khiêm được đổi sang làm Tán lý quân thứ Lạng Bình, để cùng với Đề đốc Nguyễn Viết Thành và Phó tuớng Tạ Kế Quý mang lực lượng đi đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất Khê (Lạng Sơn). Lập công, ông được thưởng. Sau vì để quân đi đốt nhà cướp của, bị khép vào tội đồ, nhưng cho lấy công chuộc tội.
Năm 1869, Ngô Côn xua quân đi vây đánh thành tỉnh Bắc Ninh. Hay tin, từ huyện Kim Anh (nay là một phần huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội), Ông Ích Khiêm đem binh voi đến chống trả. Ngô Côn bị trúng đạn lạc, tử trận [4], thành được giải vây, ông được khởi phục hàm Bố chính sung Tán lý. Sau đó, ông mang quân đi truy đuổi tàn quân của Ngô Côn, thắng thêm mấy trận nữa.
Năm 1870, Ông Ích Khiêm cùng Tham tán Lê Bá Thận phá tan quân của Hoàng Vân ở rừng Lục Ngạn, được thăng Tham tri bộ Binh, đổi sang làm Tán lý Lạng Bình, ít lâu sau thăng lên Tham tán. Bấy giờ quân Tô Tứ (sử Nguyễn gọi là “giặc Khách” hay phỉ”) nửa đêm đến chiếm cứ thành tỉnh Lạng Sơn. Khâm sai Võ Trọng Bình chạy thoát, Trung quân Ðoàn Thọ bị giết chết. Nhận lệnh, Ông Ích Khiêm đem đại bác đến đánh vào cửa đông thành. Bị quân Tô Tứ bắn trả, ông bị thương ở chân, bèn cho quân rút về Hải Dương. Không làm tròn trách nhiệm, ông bị giáng xuống làm Quang Lộc tự khanh, song vẫn sung làm Tán lý.
Năm 1871, Ông Ích Khiêm ở quân thứ Đông Triều (Quảng Ninh) đánh thắng quân Tô Tứ được mấy trận. Mùa hè năm ấy, quân Tô Tứ đến đánh Sơn Tây, ông liền được thăng Thị lang gia hàm Tham Tri đổi làm Tham tán quân thứ Sơn Tây, để lo việc đánh dẹp.
Tháng 2 (âm lịch) năm 1872, ông cùng Tán tương Nguyễn Di phá tan sào huyệt của quân “phỉ” [5] ở Quán Tư, lấy lại huyện Trấn Yên (hay Trấn An, nay thuộc Yên Bái), được khen thưởng; nhưng ít lâu sau, đánh thua ở Đại Đồng, bị cách chức lưu dụng.
Năm 1873, quân “phỉ” đến vây hãm đồn Phong Đăng, Khâm mạng Nguyễn Tri Phương và Thống đốc Hoàng Tá Viêm muốn nhân cơ hội này đánh úp sào huyệt của họ ở Đại Đồng, nên cho đòi các đạo binh đến góp sức. Ông Ích Khiêm vốn bất hòa với Hoàng Tá Viêm, bèn lấy cớ “phỉ đông, đường hiểm, lại có bệnh” xin không tham gia. Nguyễn Tri Phương cho là ông không tuân tướng lệnh, giao ông cho quân thứ Tuyên Quang sai phái. Sau, vì có bệnh ông xin trở về quê.
Năm 1874, Tổng đốc mới Hải Dương là Phạm Phú Thứ (là người cùng huyện với ông), nhân về thăm quê có ghé thăm ông. Rồi nhờ lời tâu của ông Thứ, mà ông được bổ làm Tán tương quân thứ Bắc Ninh vào đầu năm 1875. Đến nơi, ông đánh quân “phỉ” ở Yên Định, bị tổn hại nhiều nên tự ý thu quân về. Tướng Tôn Thất Thuyết thấy vậy bèn sai quân bắt giam ông, cho áp giải về kinh chờ án. Nhân mắc bệnh “tâm hỏa”, ông được cho về nhà [6].
Tháng 3 (âm lịch) năm 1882, vua Tự Đức thấy Ông Ích Khiêm giỏi giang, bấy lâu vất vả, tuy rằng có “dõng mà không có lễ”[7], cho ông làm Hồng lô tự khanh làm Biện lý bộ Hộ, rồi cất làm Thị lang sung Tham lược kinh kỳ, coi đắp đồn Thái Dương và Lộ Châu. Ý muốn làm mau xong, ông có hành động quá nghiêm khắc với dân binh, bị vua khiển trách, giáng làm Chủ sự, cho dời đi phòng thủ ở đồn Hòa Quân, nhưng chưa bao lâu được phục hàm Thị giảng tham biện phòng vụ.
Tháng 6 (âm lịch) vua Tự Đức mất. Sau đó, Ông Ích Khiêm được giao trấn giữ cửa biển Thuận An để bảo vệ kinh thành Huế. Trước thế lực mạnh của quân Pháp, ông không thể làm tròn trách nhiệm, bị đổi sang làm Biện lý bộ Lễ. Cuối tháng 10 (âm lịch) năm ấy, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lại mưu việc phế lập, mới mật bảo Ông Ích Khiêm và Trương Đăng Thê mời vua Hiệp Hòa đến nha Hộ Thành, ép uống thuốc độc giết chết.
Đầu niên hiệu Kiến Phúc (1884), thăng ông làm Thị lang, tước Kiên Trung nam. Sau đó, ông dẫn quân đi tiễu trừ cuộc nổi dậy của dân thiểu số ở Trà My (Quảng Nam) [7].
Chết trong ngục
Dẹp yên xong, tháng 5 (âm lịch) năm 1884, Ông Ích Khiêm đem 50 lính đi thẳng về quê nhà (Quảng Nam). Bị Ngự sử Đào Hữu Ích đàn hặc là ”tự tiện bắt binh mã đi, giao thông với phủ đệ” [8] nên ông bị, ông bị cách chức đày đi an trí ở Bình Thuận.
Tháng 6 (âm lịch) năm ấy (1884), vua Kiến Phúc mất đột ngột. Theo Nguyễn Văn Xuân thì cái chết này khiến trong và ngoài triều hết sức xôn xao. Ở trong ngục Bình Thuận, Ích Khiêm hay tin, liền nhịn đói luôn bốn ngày, viết di chúc rồi uống thuốc độc mất. Trong di chúc có câu: “Vua (bị) nhục, thì thần phải chết...(Nay) ta lấy tháng 7 (âm lịch), ngày 19 làm ngày bài tử (ngày chết) vậy”. Năm ấy, ông 53 tuổi.
Năm 1885, vua Hàm Nghi truy phục cho ông hàm Thị độc.
Thơ Ông Ích Khiêm
Sinh thời, ông thích làm thơ, nhưng tác phẩm đã thất lạc gần hết. Sau đây là hai trong số bài thơ còn sót lại của ông.
Làm khi thấy quân Cờ đen cậy thế sách nhiễu dân:
Áo chúa cơm vua đã bấy lâu
Ðến khi có giặc phải thuê Tàu!
Từng phen võng giá mau chân nhẩy
Ðến buớc chông gai thấy mặt đâu
Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp
Trâu de ngày hiến đứa răng bầu
Ai ôi hãy chống trời Nam lại
Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu.
Làm khi bị an trí ở Bình Thuận:
Mình ốc mang rêu rửa sạch ai,
Rung cây nhát khỉ thói quen hoài.
Mèo quào phên đất chi khờn sức,
Sứa vượt qua đăng mới gọi tài.
Cậy mạnh chớ quen rờ dái ngựa,
Mình cao đừng ỷ đứng đầu voi.
Truông qua chứa khỏi đừng khinh khái (cọp)
Chim xổ lồng ra để đó coi![9]
carot,
Đơn vị cung cấp dịch vụ uy tín, lâu năm
Đội ngũ tư vấn chuyên nghiệp, tận tâm
Bồi hoàn nếu chất lượng không đúng
Nhiều ưu đãi giá tốt cho khách hàng
Đặt tour, khách sạn: 0903 662 420